Giới thiệu bài phú Gia Định thất thủ vịnh

Lời dẫn của Trương Vĩnh Ký

Vịnh này ai làm ra thì không có biết rõ, mà văn làm hay, đối đáp cân xứng. Xem hãy còn dài nữa, mà thấy bổn chép có bấy nhiêu, thì ta cũng chép lại bấy nhiêu. Bấy nhiêu cũng đủ hiểu ý tứ và chí khí của kẻ làm. Chính ý là tiếc đất cũ của mình nay đã về tay giặc; đổ cho đạo tuần hườn trời đất đổi dời khiến cho giặc mạnh. Khí giới giỏi, cơ xảo đến đánh mà lấy đi.[3]P.J.B. Trương Vĩnh Ký[4].

Toàn văn bài phú

Dưới đây là toàn văn bài phú in trong Tổng tập địa dư địa chí Việt Nam (tập 3), do Nguyễn Đình Đầu giới thiệu.

Gia Định thất thủ vịnh1. Thương thay đất Gia Định! Tiếc thay đất Gia Định!Vực thẳm nên cồn, đất bằng nổi sóng.[Ghi chú 1]2. Tàu khói chạy mây tuôn sông mấy khúc, lờ lạt bến Trâu [5]Dây thép giăng chớp nhoáng đất ngàn trùng, ngã xiêu thành Phụng [6].3. Bờ cõi phân chia khác mặt, trông ra như quáng như mù.Giang sơn dời đổi lạ mày, tưởng tới dường mê dường tỉnh [Ghi chú 2].4. Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, ngổn ngang xe ngựa đất gò bằng.Dấu trước lấp, dấu sau bồi, tan nát cửa nhà trời dậy sấm [Ghi chú 3].5. Inh ỏi súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt câu ca [7]Tò le kèn thổi trời Nam, mờ mịt năm canh không tiếng trống [Ghi chú 4].6. Hào kiệt tìm phương lánh mặt, sa cơ gió hạc lúc hư kinh [8][Ghi chú 5]Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.7. Từ Bến Thành[9] trải qua chợ Sỏi [10] loài tanh hôi lang lệ biết bao nhiêu [Ghi chú 6].Nơi Chợ Lớn[11] sắp tới Cầu Kho[12], quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm.8. Cầu Thị Nghè [13] cùng nơi Chợ Quán [14] chúa Giê-giu đắc ý vểnh râu.Chùa Cẩm Đệm[15] trải đến Cây Mai[16], Phật Bồ Tát chịu nghèo ôm bụng.9. Nơi nơi nổi xóm đạo nhà thờ.Chốn chốn lập chùa thiêng miếu thánh[17]10. Dọc dọc ngang ngang mấy lớp, thảy đều chúng nó lâu đài.Văn văn võ võ hai bên, nào thấy quan ta võng lọng.11. Ngậm ngùi thay ba bốn lân Gò Vấp [18], cây cỏ khô thân thế cũng khô.Bát ngát nhẽ Mười tám thôn Vườn Trầu[19], hoa trái rụng, người đời cũng rụng.12. Mấy dặm Gò Đen - Rạch Kiến[20], ngọn lửa thiêu sự nghiệp sạch không.Đòi nơi Rạch Lá - Gò Công[21] trận gió quét cửa nhà trống rỗng.13. Tiếng kêu oan, oan này vì nước, hồn nghĩa dân biết dựa vào đâu?Thân liều thác, thác cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà đầy đống.14. Sông núi đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay kẻ thác chẳng an hồn.Đường sá đắp, cửa nát nhà tan, cực bấy người còn khôn nỗi sống.15. Sau trước vầy đàng tả đạo, dân ta đòi bữa đòi suy.Đêm ngày ỏi tiếng Lang Sa [22], thế nó càng ngày càng lộng.16. Cờ Thành Thang [23] sao không thấy phất, bỏ liều con đỏ chốn chông gai.Áo Võ Vương[24] sao chẳng thấy cài, nỡ để dân đen trong bùn lấm.17. Đầu Trung nguyên tóc hãy còn dài, công này nhờ Chu Bá, học Xuân Thu xin chớ biếm Hoàn Công [25].Tay tả nhậm áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi vì ai, học Luận ngữ cớ sao chê Quản Trọng [26].18. Bóng xế dặm ngàn trong man mác, nước non này ai thấy chẳng buồn.Trời chiều chim chóc nhảy lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng động?19. Nay ta nhân cảm việc đời,Vậy mới tả một bài ngâm vịnh:Dắng dỏi lầu Tây tiếng địch xoang,Đoái trông thấp thoáng bóng dương tàn.Giang sơn tám cõi êm tì báoThế giới ba ngàn nổi sói lang.Áy náy người lo ơn cúc dục,Bâng khuâng kẻ tưởng nghĩa quân vương.Ai về bến bắc thăm người Võ,Hỏi cán cờ mao trải mấy sương?

Chú thích của Trương Vĩnh Ký

  1. Đổi dời đời biến loạn, nổi giặc Tây.
  2. Chỉ đất Gia Định đã đổi dời khác quá, không còn nhìn được nữa. Mà nghĩ đất giang san cố cựu lại dường tỉnh dường mê.
  3. Cái cũ đã tàn đi, bây giờ ra lớp mới, xe ngựa dập diều. Cửa nhà xưa phá tan hết, bây giờ nhà mới xây gạch đá, lầu hiên chập chồng.
  4. Súng Tây bắn rền đất, thiên hạ kinh hãi dập tiếng âu ca, là đổi thạnh ra loạn, thái bình ra giặc giã. Bây giờ nghe tiếng kèn tây thổi tò tó te, đêm không nghe tiếng trống canh như xưa.
  5. Gió hạc lúc hư kinh: hạc nghe gió dậy thất kinh (phong thinh hạc lụy).
  6. Tinh chuyên hay tanh hôi cũng vậy.